- tuyên truyền sâu rộng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên, học sinh, sinh viên, gia đình và cộng đồng về các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về giáo dục đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử trong trường học; về mục đích, ý nghĩa, biện pháp, trách nhiệm của nhà …
Học sinh toàn tỉnh này sẽ được nghỉ học ngày 15-10 để ứng phó với mưa lớn. Theo dự báo của Tổng cục Khí tượng thủy văn, Thừa Thiên Huế sẽ là một trong những tỉnh có lượng mưa lớn nhất của đợt mưa lần này, kéo dài từ ngày 14-10 đến ngày 16-10.
trước thực trạng nhiều học sinh, sinh viên chưa có kinh nghiệm tìm việc làm, dễ bị lừa bởi các tổ chức đa cấp, lừa đảo ngày càng tinh vi, biến tướng trên mạng xã hội. ông lê nguyễn nam thông tin các ứng viên nên ứng tuyển đầu việc do nhà trường; trung tâm hỗ trợ học sinh, sinh viên thành phố; trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên cung cấp, giới …
Hình ảnh hàng loạt học sinh phải vào viện cấp cứu vì ngộ độc trong ngày 7/10. Theo Straits Times, vụ ngộ độc hôm thứ 6 là vụ ngộ độc thứ 3 liên tiếp xảy ra tại các trường học ở Chiapas trong 2 tuần qua nhưng nhà chức trách vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân khiến nhiều phụ huynh vô cùng bức xúc.
Học sinh trung học phổ thông (THPT) đang ở độ tuổi khôn lớn, trưởng thành, nên ngoài việc giáo dục tri thức khoa học thì giáo dục văn hóa giao tiếp học đường có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bài viết tập trung phân tích các chuẩn mực văn hóa học đường; và phát huy vai trò
Vay Tiền Nhanh. Tia sáng dành cho bạn trẻ số 1, ngày 25-5-2002, đăng bài dịch một bức thư Mỹ “có rồi hẵng cho” với lời đề tựa đầy ấn tượng “Xin mọi người đọc thuật kỹ và thật bình tâm, đặt một ấm nước, lúc đọc xong là lúc nước sôi, pha bình trà, uống và ngẫm nghĩ về người Mỹ, về quan điểm đạo đức xem nó ra răng”. May mắn là bức thư khá ngắn nên đọc không mất nhiều thời gian cho lắm. Tuy nhiên vấn đề nó đặt ra thì không hề đơn giản là sáng tạo có vị nhân sinh hay không. Tôi xin mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề thú vị này, với mục đích góp thêm một tiếng nói nhằm rộng đường dư tắc đạo đức mới là gì?Đó là bức thư của H. Ayn Rand, người Mỹ gốc Nga, tác giả của nhiều cuốn sách, gửi Tom Girdler, nhà sản xuất thép người Mỹ. Quan điểm của Ayn Rand là “có rồi hẵng cho”, về thực chất là một quan điểm đúng đắn. Vấn đề là dường như Ayn Rand cho rằng, “có” ở đây chỉ là có các sản phẩm vật Rand viết “Sai lầm lớn nhất của thế giới chính là ở chỗ chúng ta đã chấp nhận và tin rằng chủ nghĩa vị nhân sinh, tức là lấy việc phục vụ người khác như một nguyên tắc tối cao và coi việc đặt người khác lên trên bản thân mình là một biểu hiện của đức hạnh”. Và “chúng ta luôn được dạy dỗ rằng, đức hạnh cao nhất là “cho”, chứ không phải là “tạo”. Nhưng người ta không thể cho cái chưa được tạo ra. Do vậy nhu cầu về người sáng tạo phải có trước nhu cầu về người hưởng lợi. Người sáng tạo phải đứng trên bất kỳ người theo chủ nghĩa vị nhân sinh nào humanitarian”.Theo Ayn Rand, những nhà sáng tạo và sản xuất như Thomas Edison hay Henry Ford không đặt ra mục đích sáng tạo vì con người. Khi Edison phát minh bóng đèn điện, ông không nghĩ tới những người dân nghèo khó. Girdler sản xuất thép chỉ để sản xuất, chứ không phải để bán thép rẻ cho mọi người. Những người như Girdler “không bị dao động bởi cái động cơ phục vụ người khác mà cả thế giới tin vào”, họ sáng tạo chỉ để sáng tạo, “chỉ đi theo một động cơ đơn giản, mang tính cá nhân, đi theo một tình yêu ích kỷ và cao quí đối với công việc của chính mình. Đó chính là động cơ đạo đức chân chính nhất và là đức hạnh lớn nhất của con người”.Hơn thế nữa, khi Girdler viết trong cuốn Quyền được lao động của mình rằng “Tôi phản đối bất cứ ai có quan điểm rằng những người như tổng thống Roosevelt là những người đáng kính hơn, tốt hơn ít vụ lợi hơn người khác, bởi vì họ không phải có nghĩa vụ kiếm sống”, Ayn Rand cho rằng Girdler chưa đi đến rốt ráo vấn đề. Ông “phản đối bất cứ ai có quan điểm rằng nhà chính trị và những người làm công tác xã hội không tồi tệ hơn những người phải lao động để kiếm sống”. Vì thế ông nhấn mạnh, “những kẻ theo chủ nghĩa nhân văn – trên nguyên tắc và cả trên thực tế - là những kẻ ăn bám bởi mối quan tâm hàng đầu của họ là phân phát chứ không phải là sản xuất; nói đúng ra thì là quan tâm đến việc phân phát những gì mà họ không sản xuất ra. Những kẻ ăn bám thì không bao giờ đáng kinh hay tốt cả”. Và Ayn Rand kết luận, những nhà sản xuất như Girdler không bao giờ chứng minh được rằng họ tốt hơn nhiều, đáng kính trọng hơn nhiều những người làm công tác xã hội và chính trị, “cho đến khi chúng ta có một nguyên tắc đạo đức mới”!Đầu tiên tôi muốn lưu ý rằng người dịch không thấy đề tên rất vội vàng trong việc thuật và công bố bức thư, có thể do quá say sưa với nó. Vì thế ngay tựa đề cũng mang màu sắc văn nói. Sao không dịch là “Có rồi hãy cho”? Rồi những câu văn thiếu trong sáng, lặp từ, không gẫy gọn....Đầy rẫy trong bức thư chỉ mấy trăm chữ. Phải chăng quan điểm của Ayn Rand mang tính đột phá tới mức, khi đọc và lĩnh hội nó người dịch dường như mất tự chủ, mất sự phê cần thiết – nguyên tắc hàng đầu của thao tác nghiên cứu khoa học? Thiết nghĩ có gì khó khăn lắm đâu trong việc nhận chân cái quan điểm dường như rất “tân kỳ” của Ayn nói ngay rằng, thực chất nguyên tắc đạo đức mới của cái bà người Mỹ gốc Nga đó là, phải “tạo” hay “sản xuất” mới là người tốt. Còn người theo chủ nghĩa nhân văn và hoạt động xã hội, gồm cả nhà chính trị, là kẻ ăn bám, vì họ chẳng tạo hay sản xuất cái bóng đèn như Edison hay cái ô tô như Ford. Họ chỉ dây máu ăn phần khi phân phát cái mà họ không tạo hay sản xuất được! Muốn biết quan điểm này đúng sai, ta hãy đem nó áp dụng vào thức hạn ngay chính tại Mỹ, chỉ khoảng 20% dân số là người tốt, vì họ sản xuất. Còn 80% còn lại là kẻ ăn bám vì họ chỉ làm dịch vụ, phân phối, thậm chí chỉ viết văn làm thơ, hoạt động xã hội, tôn giáo và từ thiện hay những việc “ăn bám” khác. Rồi cái nước Mỹ giầu mạnh kia, họ sáng tạo nhiều và sản xuất đến một phần ba của cải toàn thế giới, chắc chắn họ đáng kính và tốt hơn những nước sáng tạo và sản xuất ít hơn, chẳng hạn như Việt Nam. Và Bill Gates thì tốt hơn Mẹ Teresa, vì vị nữ thánh thì chẳng sản xuất được gì ngoài việc mang tình thương đến cho dân nghèo Ấn Độ trong tư cách một người nhân văn chủ nghĩa, tức đích thị là kẻ ăn bám!Đó là cái gì nều không phải là nguyên tắc tôn thờ vật chất và rẻ rúng các giá trị tinh thần của giới trọc phú Mỹ? Rõ ràng tác giả bức thư rất thiều hiểu biết về hoạt động của xã hội loài người, nhất là khía cạnh phân công lao động và hợp tác cùng có lợi. Và thật đáng tiếc, tuy là nhà văn những Ayn Rand lại khinh rẻ chủ nghĩa nhân văn, khinh rẻ lòng tốt và chủ nghĩa vị nhân sinh – điều ngược với thiên chức của văn học. Tôi là nhà vật lý nên không dám tranh lời các văn nghệ sĩ mà chỉ bàn luận trên góc độ khoa học tự nhiên, theo tinh thần tích hợp văn hoá đang được chuộng trên toàn thế giới, mà ở đây là thuyết tiến hoá Darwin, được xem là có ảnh hưởng lớn nhất tới tư duy hiện đại theo tạp chí Người Mỹ khoa học, số 7-2000.Theo thuyết tiến hoá, con người có bản năng thiện tính, xuất phát từ thực tế là chúng ta được tự nhiên trang bị kém nên không thể tự phục vụ cho mọi nhu cầu cá nhân. Và đó là lý do giống như các động vật xã hội tính khác, chúng ta chỉ tồn tại được khi đảm trách một nhiệm vụ cụ thể theo sự phân công lao động, nguồn gốc của sự hợp tác xã hội. Như đối tượng của tiến hoá, sự tồn tại của một xã hội phụ thuộc chủ yếu vào sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên. Sự hợp tác cũng có vai trò quan trọng không kém sự cạnh tranh trong việc thúc đẩy xã hội loài người. Và sự hợp tác thì nhất định dựa trên lòng vị than. Nói cách khác, quá trình tiến hoá cổ vũ lòng vị tha, sự phân công lao động và sự hợp tác cùng có lợi thuyết tiến hoá hiện đại hoá, cho rằng không chỉ các cá nhân mà các nhóm xã hội cũng là đối tượng của tiến hoá xem Cấu trúc thuyết tiến hoá, NXB Belknap, 2002. Có nghĩa lòng tốt và chủ nghĩa nhân văn có nguồn gốc rất sâu xa từ chính quá trình tiến hoá và là những tính chất căn bản giúp con người có thể sinh tồn và phát triển. Vì thế đối lập sự sáng tạo với chủ nghĩa nhân văn là một sai lầm không thể chấp nhận được về mặt khoa mặt đạo lý, xem những người nhân văn chủ nghĩa là ăn bám cũng là sai lầm nghiêm trọng. Tự do, bình đẳng, bắc ái chính là tiêu chí căn bản của một xã hội bắt đầu hiểu bản chất con người. Chúng ta sinh ra ai cũng có quyền bình đẳng, nhưng tạo hoá không thể công bằng với mỗi một cá nhân. Tạo hoá không thể phân phát trí tuệ và kỹ năng như nhau cho tất cả mọi người. Chúng ta không thể chọn cha mẹ, chọn gia cảnh để sinh ra. Có nghĩa con người sinh vốn lại không bình đẳng. Vậy thì ai sẽ mang lại cho chúng ta sự bình đẳng nếu không phải là những người theo chủ nghĩa nhân văn- những người quan tâm không chỉ tới những cá nhân xuất chúng mà còn tới từng mảng đời bất hạnh – nền tảng quan trọng của một xã hội tìm kiếm sự công bằng? Và để đảm bảo sự đánh giá công bằng đối với ngưới sản xuất, có thể dẫn ra một quan điểm, ai đóng nhiều thuế và tạo nhiều việc làm cho xã hội là người tốt. Giá trị của một người chính là ở chỗ người đó phục vụ xã hội như thế nào. Mà phục vụ thì không chỉ là “Tạo” hay “sản xuất”, mà quan trọng hơn cả là tổ chức được một xã hội dân chủ, công bằng, phát triển và văn minh, nơi lợi ích riêng của mỗi cá nhân kết hợp nhuần nhị với lợi ích chung của toàn xã hội. Sẽ sai lầm nếu cho rằng sức sống của nhà sáng tạo hay nhà sản xuất lâu bền hơn của nhà chính trị. Truyền thuyết Nghiêu thuần xưa là một trong những bằng chứng rõ ràng cho điều đó. Cũng xin nhắc lại chuyện cũ tại nước ta hơn mười năm trước. Khi đó có người cho rằng văn nghệ và chính trị đều là những hình thái ý thức xã hội nằm trên thượng tầng kiến trúc nên chỉ tác động qua lại chứ không thể chi phối nhau. Có thể họ đã nhầm giữa chính trị và tư tưởng chính trị. Với tư cách toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, chính trị có khả năng chi phối hầu như tất cả các hoạt động, kể cả năng lực sáng tạo của xã hội. Đó là lý do Nguyễn Trãi phò Lê Lợi hay Ngô Thì Nhậm theo Quang Trung. Phò chính thống là nét tự nhiên của trí thức, vì như thế họ sẽ có điều kiện phục vụ xã hội và con người, cũng như phổ biến cái đạo của họ một cách trực tiếp, thuận lợi, nhanh chóng và rộng rãi nhất. Kẻ sĩ xưa luôn tìm minh chủ để phò, vậy nay minh chủ là ai? Xin được trở lại chủ đề khi có xin nói thêm, “nguyên tắc đạo đức mới” đó chắc chắn bị phản đối ngay tại nước Mỹ. Nên biết rằng chính Edison quan tâm sâu sắc tới nhu cầu xã hội, tớ người nghèo bằng nhiều phát minh cụ thể như nhà bê tông đúc sẵn, phao cứu sinh cho lính thuỷ thời Chiến tranh thế giới thứ II, qui trình tuyển Quặng ít ô nhiễm, ô tô điện,...xem Người Mỹ khoa học, số 2-1997. Ông chính là một người vị nhân sinh chân chính với tất cả những gì cao quí nhất cần phải có. Hay Bill Gates đã lập quĩ từ thiện hàng tỷ đô là và tuyên bố đến 50 tuổi sẽ hiến toàn bộ tài sản cho quĩ này. Còn theo Michael Dertouzos, người đã hơn 30 năm lãnh đạo Phòng thí nghiệm khoa học tính toán, Viện công nghệ Massachusetts, một cái nôi của công nghệ thông tin, thì phương Tây đã sai lầm khi chia tách công nghệ và chủ nghĩa nhân văn 300 năm trước; và nay chính là thời khai sáng mới để nhập chúng lại với nhau xem Người Mỹ khoa học, số 7 – 1997 và Time, số đặc biệt tháng 1 – 1998. Không nên quên rằng, chủ nghĩa đơn phương... mới chỉ là một nửa sự thật về người Mỹ. Một nửa khác nằm ở Luther Kinh, Morrison, Edison và hàng triệu người nhân văn chủ nghĩa yêu công lý, chuộng tình thương và giầu lòng sáng tạo khác. Muốn “ngẫm nghĩ về người Mỹ, về quan điểm đạo đức xem nó ra răng”, cần suy nghĩ nghiêm túc, toàn diện và sâu sắc, chứ không thể tuỳ tiện và giản lược như cái bà người Mỹ gốc Nga ấy được. Và cho dù con người và xã hội Mỹ có hay đến đâu chăng nữa, những cái hay đó chưa chắc đã hợp với con người và xã hội khác, nhất là với phương nhu cầu của con ngườiNói đi thì cũng cần nói lại, tác giả Ayn Rand cũng có điểm đúng khi cho rằng trong lúc sáng tạo, những nhà sáng tạo chỉ đi theo một động cơ cao quí, có tính ích kỷ và đậm màu sắc cá nhân đối với công việc của riêng mình. Như lời Nguyễ Khải, trí thức là kẻ đại ích kỷ, bản thân hắn mà hắn còn không quan tâm ăn uống thất thường, lười tắm rửa, quần áo lôi thôi..., vậy hắn quan tâm được đến ai! Ta cũng thường nghe nói tới tháp ngà sáng tạo. Có thể hiểu rõ hơn điều đó khi nghiên cứu thang nhu cầu của nhà tâm lý Abraham Maslow 1908 -1970.Theo Maslow, nhu cầu con người được xếp thành hệ bậc thang. Tuỳ cách trình bày mà ta có thang năm hay thang bảy bậc, trong đó thang bảy bậc thì tiện lợi hơn. Bậc dưới cùng là các nhu cầu sinh lý như đói, khát, nóng, lạnh....Bậc thứ hai các nhu cầu an toàn và an ninh. Bậc thứ ba là các nhu cầu của cải, tình yêu và được thừa nhận. Bập tiếp theo là nhu cầu được kính trọng. Tiếp nữa là nhu cầu nhận thức Muốn biết, muốn tìm hiểu và khám phá. Cao vũ trụ như tính đối xứng, sự trật tự và vẻ đẹp ẩn giấu dưới những biểu hiện đó. Và ở bậc thang cao nhất là nhu cầu khám phá đến tận cùng khả năng đơn nhất của bản thân, theo nghĩa nó khác biệt với tất cả các cá nhân khác. Đạt tới bậc thang này là những người biết sử dụng một cách khác thường toàn bộ năng lực bản thân. Theo Maslow, đó là Spinoza, Jefferson, Lincoln, Einstein, Edison hay Roosevelt...Và đáng buồn thay cho Ayn Rand, trong số các đặc tính của những nguời tự biến thành hiện thực đó, ngoài khả năng văn xem Nhập môn Hilgard của tâm lý học, NXB đại học Harcourt Brace, lần xuất bản thứ 12, 1996, trang 446-467. Vì lẽ đơn giản sáng tạo không chỉ là công việc của bộ óc mà còn của trái tim. Những người có khả năng sáng tạo nhất cũng chính là những người có tấm lòng nhân bản, vị tha, vị nhân sinh nhất. Họ chỉ sáng tạo càng nhiều càng tốt mà không quan tâm tới việc bản thân được xếp ở đâu trong ký ức xã hội. Và họ cũng khiêm nhường không tự cho mình cao quí, đáng kính trọng, tốt hơn những người khác. Nếu thiếu tính khiêm nhường và lòng khoan dung, thiếu sự nhạy cảm với nỗi đau của con người, nếu ích kỷ và khoa trương, chắc chắn họ không thể sáng tạo. Thêm một lần nữa chúng ta thấy, đối lập sức sáng tạo với chủ nghĩa nhân văn là quan điểm không thể chấp nhận được. Vậy xin Ayn Rand và những ai đồng ý kiến hãy yên lặng để những con người xuất chúng đó thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng là cống hiến toàn bộ năng lực tuyệt vời của mình cho hạnh phúc toàn nhân loại. Chỉ theo nghĩa đó họ mới đáng kính trọng, mới là người tốt trong mắt mỗi chúng nói thêm là như bất cứ một lý thuyết tâm lý nào khác, thang nhu cầu Maslow cũng chịu nhiều chỉ trích. Người ta cho rằng, Maslow đúng với các cá nhân xuất sắc nhất, thành đạt nhất phương Tây. Với các cá nhân và các xã hội khác, thang Maslow không hoàn toàn đúng nữa. Và điều đó đúng với bản chất con người, đúng với bản chất của văn hoá. Con người và các nền văn hoá có nhiều nét khác biệt đến mức, ngoài một số chuẩn mực chung, không thể có một thang giá trị dùng được cho tất cả mọi người và mọi nền văn hoá. Ayn Rand đã rất sai lầm khi mang những tiêu chí đúng cho dưới 1% dân số ra để bắt hơn 99% còn lại phải theo, trong khi ngược lại mới là chuẩn đó có nghĩa cần loại bỏ thang Maslow? Không hẳn như vậy, nó vẫn có thể dùng như một tham khảo tốt. Chẳng hạn dựa vào đó có thể lý giải tại sao Tolstoy viết được Chiến tranh và hoà bình, vì ngoài những điều kiện khác, ông may mắn vượt qua năm bậc thang đầu tiên. Và đó cũng có thể là một lý do giải thích tại sao chúng ta chưa có một tác phẩm văn học xứng tầm với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Thang Maslow mang nét duy vật và là minh hoạ tốt cho tinh thần của ông cha ta “có thực mới vực được đạo”.Nghệ thuật vị cái gì?Vấn đề chưa dừng ở đó. Trong bài “Sáng tạo, nhu cầu người nhất của con người” trên Tia sáng dành cho bạn trẻ số 2, một nhà văn đoạt giải thưởng nhà nước nhưng không nhận quay trở lại cuộc tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh trên văn đàn nước ta 70 năm trước. Ông kể rằng năm 1992, trong cuộc hội thảo kỷ niệm 50 năm ngày thành ra đời cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, ông đã mạo muội hỏi các nhà lý luận phê bình văn học rằng, tại sao với quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật sai lầm, Hoài Thanh lại chọn được 45 nhà thơ tiêu biểu mà ngày nay chỉ thấy rơi rụng đâu có 5-7 người. Có nghĩa sự đánh giá và chọn lọc của cái ông chủ trương quan điểm nghệ thuật rất đỗi suy đồi ấy về cơ bản là chính xác! Còn những nhà phê bình kiên định quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh thì chẳng làm được cái điều tương văn của chúng ta cho rằng, chỉ có hai cách lý giải hiện tượng nhất, Hoài Thanh không hề thực sự chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật” mặc dù ông có tự nhận như vậy. Thậm chí sau này dưới sức ép nào đó, ông còn mấy lần công khai bầy tỏ sự hối hận sâu sắc về sai lầm chết người này. Thứ hai, quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của ông là đúng, đúng đến nỗi ông là người duy nhất nhận ra chân lý. Nhà văn nhấn mạnh, ông thiên về khẳ năng thứ hai, tức xem nghệ thuật vị nghệ thuật là đúng. Điều đó cũng có nghĩa nghệ thuật vị nhân sinh là sai, dù ông không nói thẳng như vậy. Nhà văn đi đến kết luận này sau khi “đọc thật chậm” thư của Ayn Rand, cho thấy ông đồng ý với quan điểm rằng, con người đã rất sai khi coi trọng chủ nghĩa vị nhân sinh. Vị nhân sinh sai vậy vị nghệ thuật phải đúng! Rõ ràng dù đã đọc thật chậm những nhà văn vẫn bị lừa khi không biêt chính ông cũng bị xếp vào hạng ăn bám, vì Ayn Rand chỉ nói về “tạo” hay “sản xuất” các giá trị vật chất mà theo nhà văn cho rằng, “khác với những điều vẫn thường được rao giảng ra rả về “sự phục vụ”...bản chất của nghê thuật là thuần tuý, thuần tuý vì chính nó”. Do đó ông đồng tình với Ayn Rand "Hãy vì chính mình mà sáng tạo trước đã, để có rồi hẵng cho!”. Và ông cũng kêu gọi một nguyên tắc đạo đức mới, “một nguyên tắc đạo đức thật, không giả vờ, không dối trá, không mị dân”, trước khi hoà giọng cùng Ayn Rand phê phán những kẻ ăn bàm mà theo ông thì “có bao giờ thiếu” và lắm mồm hơn tất cả”.Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa trước khi bàn về học thuật rằng, nhà văn của chúng ta chưa hiểu quan điểm của Ayn Rand, cái quan điểm mà lẽ ra với tư cách một nhà văn có thiên chức đề cao chủ nghĩa nhân văn, ông phải kịch liệt phê phán và bác bỏ. Chẳng lẽ chỉ vì sự giống nhau ở lớp vỏ ngôn ngữ của thuật ngữ “vị nhân sinh” mà ông lại nhầm lẫn đến vậy?Quay trở lại với vị nghệ thuật hay vị nhân sinh, đầu tiên chúng ta cần nhìn cuộc tranh luận giữa Hải Triều và Hoài Thanh bằng con mắt lịch sử. Nhớ tới cảnh nước mất nhà tan, dân ta rên xiết dưới ách nô lệ, thực dân Pháp thì bày đủ trò để thanh niên ta quên nỗi nhục mất nước mà tiêu tan ý chí đấu tranh, ta sẽ hiểu vì sao Hải Triều được ủng hộ. Tiếp theo, không như nhà văn quả quyết rằng, đánh giá chính xác của Hoài Thanh chỉ có thể do quan điểm vị nghệ thuật là đúng, quan điểm vị nhân sinh là sai; tôi cho rằng tính chính xác đó xuất phát chủ yếu từ con mắt xanh, từ khả năng cảm thụ và phát triển của nhà phê bình. Rất nhiều người khác cũng vị nghệ thuật, tại sao họ không thẩm định được như Hoài Thanh? Quan điểm nghệ thuật chỉ là kim chỉ nam mà thôi, muốn đến được Nam Cực, cần thêm rất nhiều thứ khác ngoài cái la bàn. Chỉ với quan điểm nghệ thuật đúng mà thành công trong lý luận phê bình văn học thì có lẽ cả nước trở thành phê bình! không nên quên rằng việc cảm thụ văn chương độc lập tương đối với trình độ học thuật của người thưởng thức. Người bình dân Việt Nam xưa trình độ thấp, quan điểm nghệ thuật không thể xem là chuẩn xác. Nhưng điều đó không ngăn cản việc họ sáng tác được cả một kho tàng tục ngữ, ca dao vô giá; không ngăn cản việc họ thưởng thức Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm hay thơ Hô Xuân Hương. Đó chính là sự kỳ diệu của văn chương, nghệ thuật –sự kỳ diệu của điều giản đơn ai cũng có thể hiểu, theo lời Einstein ca ngợi vua hề Charlot, tất nhiên là với mức độ khác cho đến tận hôm nay mà vẫn còn băn khoăn xem nghệ thuật vị cái gì thì thật là khác thường. Cũng chẳng biết nói sao nữa khi nhà văn cứ nhất định cho rằng một số nhà khoa học vị nhân sinh giải thích hình vẽ các con vật trên vách hang động là để người nguyên thuỷ tập bắn, tập đâm chúng, luyện khả năng cho các cuộc đi săn. Nhà khoa học nào giải thích như vậy? Và tại sao ông dị ứng với vị nhân sinh đến vậy?Tôi nghiên cứu vật lý nên không rõ nghệ thuật ra đời như thế nào. Nhưng là người tin tiến hoá luận Darwin nên tôi mạo muội cho rằng, nghệ thuật hội hoạ như thế trước hết là để phục vụ các lễ nghi mang tính tín ngưỡng của người nguyên thuỷ. Đến lượt mình, các lễ nghi đó lại có ý nghĩa sinh tồn. Có giả thuyết cho rằng tín ngưỡng bắt nguồn từ chính bản năng sinh tồn của con người xem Vũ trụ nghệ thuật, NXB Clarendon – Oxford, 1995. Như vậy ngay từ nguồn gốc phát sinh, nghệ thuật đã vì con người, đã vị nhân sinh, chứ không phải “bản chất của nghệ thuật là thuần tuý, thuần tuý vì chính nó”. Và nó chỉ có thể vì con người, vị nhân sinh khi nó đúng là nghệ thuật, tức khi nó vị nghệ thuật. Theo thiển ý, vị nghệ thuật là thuộc tính, vị nhân sinh là mục đích. Chỉ với thuộc tính đó mới đạt tới mục đích đó. Thực ra nhà văn của chúng ta tự mâu thuẫn đấy thôi, chứ ông cũng rất vị nhân sinh khi nhận định “tính người của con người bắt đầu khi nó biết sáng tạo vì chính nó, hoàn toàn vô tư, chẳng “vị” cái gì hết”. Con người “biết sáng tạo vì chính nó” tức biết sáng tạo vì con người, sáng tạo vị nhân sinh chứ chẳng lẽ lại vị con trâu hay con bò?.Nói như giới nghệ thuật học , nghệ thuật có các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ và giải trí. Điều đó chứng tỏ nghệ thuật có mục đích vị nhân sinh, vì con người, phục vụ con người. Và nghệ thuật chỉ có thể hoàn thành tốt điều cao quí nếu trước hết nó vị nghệ thuật, có tính nghệ thuật, đúng là nghệ thuật. Phải chăng đó chưa phải là những điều rất đỗi tự nhiên?Cuối cùng xin nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng, nhân văn là thuộc tính căn bản của con người, một thuộc tính đã được gìn giữ và lưu truyền qua hàng triệu năm tiến hoá sinh học và tiến hoá văn hoá. Thuộc tính đó không hề mâu thuẫn với sức sáng tạo của toàn xã hội và của mỗi cá nhân. Và như mọi yếu tố khác của văn hoá như nền sản xuất, khoa học hay tôn giáo, nghệ thuật bao giờ cũng vì con người, phục vụ con người, cũng vị nhân sinh từ trong bản nhật lúc0859 SA 04/10/2016
Nghệ thuật vị nhân sinh tiếng Pháp l’art pour la vie là lý thuyết khẳng định bản chất xã hội của nghệ thuật, chủ trương nghệ thuật gắn với đời sống xã hội và chính trị, chống lại các khuynh hướng nghệ thuật thoát ly cuộc sống, “nghệ thuật thuần tuý” coi hình thức là trên hết. Nghệ thuật vị nhân sinh là một luận điểm cơ bản và rất tổng quát của mỹ học duy vật. Bản thân nó bao gồm một hệ thống nhiều vấn đề rất trọng yếu như nghệ thuật và xã hội, chức năng của nghệ thuật, nghệ thuật và chính trị, tính giai cấp, tính nhân dân của nghệ thuật, sứ mệnh người nghệ sĩ,… mà việc giải quyết những vấn đề này lại gắn liền với những thành tựu của triết học và mỹ học duy vật của các thời đại. Do vậy, các cách lý giải trước khi có Chủ nghĩa Mác, kể cả của các nhà dân chủ cách mạng Nga ở thế kỷ XIX, đều chưa được triệt để và còn có những hạn chế nhất định. Dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử coi nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là loại sản xuất tinh thần đặc thù, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế – xã hội, của đời sống tinh thần, tâm lý của xã hội, mỹ học ,mác-xít đã và đang giải quyết một cách khoa học, triệt để và toàn diện các vấn đề trên. Nghệ thuật vị nhân sinh là khẩu hiệu đấu tranh của những người theo quan điểm văn nghệ mác-xít ở nước ta chống lại phái “nghệ thuật vị nghệ thuật’’ trong cuộc tranh luận lớn về nghệ thuật thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936 – 1939. Trong cuộc tranh luận này, phái “vị nhân sinh” đã chứng minh rằng không có văn nghệ đứng ngoài đấu tranh giai cấp và không theo khuynh hướng nào. Nếu văn nghệ không làm lợi cho giai cấp này thì sẽ làm lợi cho giai cấp khác. Họ chủ trương, trong xã hội có áp bức bốc lột, nhà văn chân chính phải “đem ngòi bút lột trán cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rõ nguồn gốc của mọi sự đau thương và để tìm lấy đường sống“. Mặc dù còn có thiếu sót, phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã giành được thắng lợi lớn. Lần đầu tiên ở Việt Nam, quan điểm văn nghệ mác-xít được truyền bá tương đối hệ thống, bước đầu đẩy lùi ảnh hưởng của khuynh hướng văn học thoát ly, cổ vũ các khuynh hướng văn học tiến bộ.
Cuộc tranh luận từng được mệnh danh là giữa phái “nghệ thuật vị nhân sinh” do Hải Triều làm chủ soái và phái “nghệ thuật thuật vị nghệ thuật” do Hoài Thanh cầm đầu đã diễn ra trong các năm từ 1935 đến 1939. Đang xem Nghệ thuật vị nghệ thuật Bước vào thế kỷ XX, nền văn hóa Việt Nam, trong đó có nền văn học Việt Nam, đã chuyển nhanh từ phạm trù văn hóa phong kiến trung đại mang tính chất khu vực và phát triển chậm chạp, sang phạm trù văn hóa tư sản, rồi thêm nữa là vô sản, mang tính chất thế giới, hiện đại, phát triển mau lẹ, và đặc biệt là có sự nâng cao hơn nhiều so với thời trung đại về tính tự giác trong quan niệm, tinh thần duy lý và các cuộc bút chiến, có mức độ đậm nhạt khác nhau, chung quanh nhiều vấn đề của cuộc sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam như Bạo động hay cải lương, duy tân hay thủ cựu, duy tâm hay duy vật, quốc học là gì, chữ Hán nên dùng hay nên bỏ, Nho giáo đáng tôn thờ hay đáng hạ bệ … chính là sự thể hiện đặc trưng văn hóa đó của thời đại. Nói riêng trong lãnh vực văn chương, sự tranh chấp trong quan điểm nghệ thuật, trong cách đánh giá một số tác phẩm cụ thể, khuynh hướng văn học cụ thể ví như với Truyện Kiều nói chung, nhân vật Thúy Kiều nói riêng, với dòng văn học lãng mãn, vấn đề dâm hay không dâm trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng …, hoặc trực diện, hoặc ngấm ngầm, cũng đã diễn ra sôi nổi đáng kể. Trong đó, có thể nói sôi động nhất là cuộc tranh luận chung quanh vấn đề thơ mới và thơ cũ từ 1933 đến 1937 và cuộc tranh luận từng được mệnh danh là giữa phái “nghệ thuật vị nhân sinh” do Hải Triều làm chủ soái và phái “nghệ thuật thuật vị nghệ thuật” do Hoài Thanh cầm đầu trong các năm từ 1935 đến 1939. Với cuộc tranh luận giữa hai phái Hải Triều và Hoài Thanh, đương thời dù có đựơc dư luận chú ý, rút cục cũng chẳng bên nào chịu bên nào. Bởi chuyện phân định thắng thua trong tranh luận văn chương muôn đời vẫn là chuyện không đơn giản. Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám 1945, thì các sách báo Mác xít từ Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam Trường Chinh, 1949, đến Giáo trình Văn học Việt Nam 1930 – 1945 tập II. Bạch Năng Thi – Phan Cự Đệ. NXB giáo dục, 1961, Lịch sử văn học Việt Nam tập V, Nguyễn Trác, Hoàng Dung … NXB Giáo dục, 1962 đến sách Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại 1930 – 1945 Vũ Đức Phúc, NXB Khoa học xã hội, 1971, cùng nhiều bài viết khác, hầu như đã thống nhất trong nhận định chung Chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh của phái Hải Triều là đúng đắn, tiến bộ, mở đầu cho sự chiến thắng của quan điểm nghệ thuật Mác – xít về sau. Phái Hoài Thanh chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật là sai lầm, vừa có hại cho sự nghiệp cách mạng, vừa có hại cho sự phát triển văn chương. Chính Hoài Thanh trên Tập san Nghiên cứu văn học số 1 tháng 1-1960 cũng đã đăng bài Nhìn lại cuộc tranh luận về nghệ thuật hồi 1935 – 1936, trong đó tỏ rõ một thái độ tự phê vừa rất chân thành vừa rất gay gắt, với những câu như “Phái vị nghệ thuật trước sau cố từ chối không chịu nhận cái danh hiệu ấy…Nhưng thái độ của họ trên thực chất là một thái độ thoát ly chính trị mà thoát ly chính trị không vị chính trị thì còn vị gì? Cho nên gọi họ là phái nghệ thuật vị nghệ thuật cũng là phải” Hoài Thanh toàn tập – Tập II, trang 532” … phái nghệ thuật chỉ thấy có mình và giai cấp bé nhỏ của mình mà không có ý thức gì về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. “Tlđd tr 547. “Cần phải tìm đến nguồn gốc chính trị và tư tưởng ấy mới nhìn rõ được thực chất của cuộc tranh luận này. Trước hết hãy nhìn vào phái nghệ thuật. Cụ thể là nhìn vào Lưu Trọng Lư và tôi hồi bấy giờ. Chúng tôi là những thanh niên ít nhiều có tham gia phong trào yêu nước hồi 1925-1926, nhưng tham gia với môt quan niệm rất mơ hồ và với một tinh thần không lấy gì làm kiên định. Vào khoảng năm 1930, bản thân bị va đầu vào bộ máy đàn áp của giặc, lại chứng kiến sự thất bại liên tiếp của cuộc bạo động Yên Bái và của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, chúng tôi đâm ra hoang mang. Tôi nhớ lại tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, cả cái lý tưởng ôm ấp trong mấy năm, thế là tan hết. Tôi có hồi mất hết lẽ sống. “tlt, tr 556. “Tôi tính chuyện làm văn và lấy văn chương làm lẽ sống mới” tlt, tr 552 … Vấn đề tưởng đã rõ ràng như thế. Nhưng thực tế lại có phần khác. Gần đây từ năm 1992 đặc biệt là vừa qua trong dịp hội thảo khoa học kỷ niệm 90 năm năm sinh của nhà văn Hoài Thanh 1999, không ít người, trong đó có Nguyễn Khải,Vũ Quần Phương,Phong Lê,Phạm Xuân Nguyên,Nguyễn Bao … cách nói có khác nhau về mức độ, nhưng đều có nét chung là muốn xem lại vấn đề một cách khách quan hơn về thực chất của cuộc tranh luận nghệ thuật này, về bản chất tư tưởng nghệ thuật của phái Hoài Thanh mà trước hết là Hoài Thanh cũng như phần đựơc và phần chưa được của phái Hải Triều. Có như thế, thiết tưởng cũng là chuyện bình thường một khi mọi người đều đã thừa nhận bản chất công việc nghiên cứu khoa học phải là một quá trình, phải là chuyện tìm đi tìm lại recherche. Theo ý chúng tôi muốn nâng cao trình độ nhận thức vấn đề, người nghiên cứu cần chú ý một số điều quan trọng như sau – Trước hết, phải thấy cho hết độ phức tạp của chuyện văn chương. – Hai là phải đi sâu hơn vào việc tìm hiểu nội hàm khái niệm cơ bản đã được đặt ra trong cuộc tranh luận. – Ba là phải tôn trong đúng mức hiện tượng tâm lý { tức là tâm thế} của những người tranh luận trong khi tìm hiểu nội dung tranh luận. – Bốn là phải coi trọng tính hệ thống trong khi đi tìm bản chất của các quan niệm. – Năm là phải đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh chính trị xã hội đã đành mà còn là bối cảnh văn học trong đó có quan niệm văn học của đương thời để có cách phân giải hợp lý. Bài viết này xin cố gắng phấn đấu theo hướng lành mạnh và cần thiết đó. Lan Khai lại có bài đáp lời Bùi Công Trưng mà theo ông thì Bùi Công Trưng đã sai lầm khi đồng nhất tâm tình và trí tuệ, ông viết “Về trí tuệ và tất cả những cái do trí tuệ sinh ra như các học thuyết, các quan niệm, các tư tưởng, các chế độ, các lễ nghi … tôi rất đồng ý với ông Bùi Công Trừng là có thể thay đổi và thay đổi không ngừng. Trái lại về tâm tính con người ta, tôi không đồng ý với ông Bùi khi ông cho rằng lòng người có thay đổi … Tôi tin rằng sự duy nhất của lòng người qua thời gian chính là một chân lý vậy … Thực ra con người ta cho dù là sống dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản, chế độ xã hội chủ nghĩa hay chế độ gì đi nữa cũng chỉ có một con tim nghĩa là sống nhịp theo bất ngoại bảy tình mà tạo hóa đã cho mang trong lòng …”. Sau bài viết của Lan Khai, không thấy bên nào nói gì nữa. Và cuộc tranh luận tuy có phát sinh trở lại nhưng xem ra cũng đã cạn điều tranh luận. Năm năm sau, trong Văn học khái luận 1944, Đặng Thai Mai đã giải thích lý do của sự im ngừng là “Xem chừng trận bút chiến hồi ấy dĩ nhiên kết thúc, là không phải vì thiếu “chiến sĩ” mà chính là đối với một vấn đề như vậy, công chúng ta vẫn rất lạnh lùng nhất là trong thời kỳ mà những trạng thái khủng hoảng về kinh tế và chính trị còn ám ảnh tinh thần người ta như một con ma bệnh” “Đặng Thai Mai toàn tập, tập I, NXB văn học 1997, tr 119 Những gì được tường thuật trên đây về cuộc tranh luận quan điểm nghệ thuật thời kỳ 1935 – 1939, chắc chắn là còn sơ lược, nhưng thiết tưởng trong phạm vi tương đối, đã có thể cho phép chúng ta nêu lên những nhận xét như sau 1. Trước hết, cuộc tranh luận mang tính chất bút chiến này, ít nhiều cũng đã không nằm ngoài đặc trưng thể loại bút chiến nói chung. Như mọi người đã biết, không riêng gì cuộc bút chiến này, mà cuộc bút chiến nào cũng vậy, đều không thoát ly khỏi đặc trưng tâm thế thông lệ là đã bút chiến với nhau, ai cũng muốn dành phần thắng về mình. Nếu không thế thì không còn bút chiến nữa, mặc dù bút chiến là một thể lọai rất cần cho cuộc sống. Điều này cũng ít hay nhiều, nhất định sẽ có liên quan tới thái độ, giọng điệu, cách hiểu ý đối phương, phô bày ý kiến của mình,kể cả việc trích dẫn sách vở. Ở cuộc bút chiến này, sự thật cũng là vậy. Cả hai bên đều chê nhau … không hiểu nghệ thuật và tự nhận chỉ mình hiểu. Cả hai bên ít nhiều đều tỏ ra không chịu lắng nghe nhau, thậm chí chỗ này chỗ khác còn cố tình không hiểu nhau, chưa nói là còn tung ra một số lời quy chụp nhau quá đáng. Mà hôm nay, với người tìm hiểu cuộc bút chiến này, chắc cũng không thể làm ngơ điều đó, khi thực sự muốn giữ cho mình một thái độ khách quan, khoa học. Xem thêm Cùng Chấm Điểm Vai Trò Host Của Chương Trình Là Gì Và Những Điều Cần Biết Cũng cần chú ý thêm đến tư thế, trạng thái của hai bên khi gia nhập cuộc bút chiến này. Phái Hoài Thanh, trứơc hết là Hoài Thanh đã nhận là mình không hề có ý định tranh luận, bút chiến, chỉ thấy Hải Triều phê bình Kép Tư Bền không đúng với tính chất phê bình văn chương thì viết bài nói lại, thế thôi. Mặt khác, ông cũng hơn một lần, tự nhận là mình sợ lý thuyết do đó mà chẳng muốn tranh luận bút chiến với ai. Đặc biệt, cũng hơn một lần, ông thanh minh trứơc dư luận rằng ông không hề chủ trương lý thuyết, quan điểm nghệ thuật gì cả, nhất là quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật lại càng không. Trước sau, ông chỉ muốn một điều là “văn chương phải là văn chương”. Trong khi đó, thì phái Hải Triều, trước hết là Hải Triều rõ ràng là có ý thức và say sưa với lý thuyết, đặc biệt là có ý chí quyết tâm chiến đấu, khẳng định một lý tưởng nghệ thuật văn chương mà ông tin là đúng, là có ích cho nhân dân, cho xã hội, cho cả văn chương. Tình huống tranh luận đã diễn ra như thế. Người nghiên cứu phải biết để có thêm định hướng cho việc phân tích nhận định. Nhưng vấn đề không chỉ là thế. Bởi ở đây, sự thật lại có nhiều điều khác cũng không thể bỏ qua. Ấy là chuyện Hoài Thanh nói là ông không muốn tranh luận, bút chiến, nhưng thực tế, ông đã tranh luận, đã bút chiến khá quyết liệt như ai. Ông nói là ông sợ lý thuyết này, lý thuyết khác. Khách quan mà nhìn thì thấy ông cũng có một thứ lý thuyết không mang phong cách nặng nề về sách vở, mà chủ yếu là dựa trên khả năng tự mình cảm nhận và suy tư về văn chương, nhưng không phải là không dựa trên vốn hiểu biết về văn hóa, trên ý kiến người này người khác, ví như ở đây là ý kiến của André Gide, của Vichtor Huygô. Kiểu tư duy lý thuyết của phái Hoài Thanh có cái thế mạnh là có nhiều chỗ gần với chân lý nghệ thuật do có sự nâng đỡ của khả năng chân cảm, trực giác nghệ thuật, nhưng dễ thường cũng có không ít hạn chế bởi ít nhiều thiếu một trình độ duy lý tối ưu. Quan sát kỹ các bài viết tranh luận của phái Hoài Thanh, chúng ta có thể chứng minh đựơc điều vừa nói đó. Còn về phía Hải Triều, đúng là có cái thế mạnh trong việc quan tâm nhiều đến lý thuyết trong khi nhiệt tình chiến đấu cho một lý tưởng nghệ thuật cao cả, nhưng khách quan, cũng đã để lộ dấu vết hạn chế của một trình độ lý thuyết vừa là thuộc phạm vi cá nhân, vừa là thuộc phạm vi thời đại.. Người nghiên cứu, bình luận hôm nay, một khi đã đựơc thời đại cho phép nâng cao trình độ lý thuyết, không thể không biết đến hạn chế đó. 2. Vậy thì từ trong tâm thế và tư thế học thuật như trên, cuộc tranh luận bút chiến đã đặt ra những vấn đề gì? Trạng thái đúng sai là thế nào? Nội dung tranh luận có bề nổi và bề chìm. Bề nổi chính là chuyện nghệ thuật vị nhân sinh hay nghệ thuật vị nghệ thuật. Nhưng bề chìm mà hai bên đều như không muốn nói ra ngay phái Hải Triều cũng không nói, mặc dù trong thâm tâm là rất muốn nói, bởi hoàn cảnh tranh luận công khai bấy giờ không cho phép, chính là lời đáp trứơc vấn đề có hay không đem văn chương nghệ thuật vào cuộc đấu tranh cách mạng đương thời do đảng Cộng sản Đông Dương phát động và lãnh đạo, điều mà Sóng Hồng đã phát ngôn trong bài thơ Là thi sĩ “dùng cán bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Những người Mác xít, đặc biệt là sau cách mạng tháng Tám hoan nghênh phái Hải Triều,coi Hải Triều là nhà lý luận tiên phong cho quan điểm nghệ thuật Mác xít chính là thầy Hải Triều đã hăng hái nhiệt tình tìm lời đáp cần thiết đó cho vấn đề, mặc dù đây là chuyện bề chìm. Còn với phái Hoài Thanh, đặc biệt là Hoài Thanh, dù trong phần bề nổi, cũng không phải là từ bỏ quan điểm nhân sinh, thậm chí là nhiều chỗ hô hào nhân sinh cũng hăng hái không kém đối phương nhưng vẫn bị quy két là vị nghệ thuật, chính là vì đã không có lời đáp cho vấn đề đang cần có lời đáp đó. Tìm hiểu tiểu sử, thái độ chính trị của Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư ở thời kỳ này và đọc lại lời tự bạch của Hoài Thanh trong bài “Nhìn lại cuộc tranh luận …” sau này mà ở trên đã có trích lại, hẳn là thấy rõ điều đó. Như thế là việc Hoài Thanh và chiến hữu của ông bị phê phán, bị quy kết là có lý do. Nhưng đây mới là một căn cứ. Điều đáng nói là có nhiều người trong khi phê phán, quy kết nhóm Hoài Thanh đã tuyết đối hóa cái căn cứ này. Trong khi như chúng ta biết, ở phần bề nổi, chung quanh vấn đế nghệ thuật vị nhân sinh hay vị nghệ thuật, cả trên hai phương diện, lý thuyết và thực tiễn, vốn dĩ không đơn giản chút nào, không dễ gì có tiếng nói cuối cùng. Trên lý thuyết, trước hết có vấn đề xác định nội hàm khái niệm nhân sinh hẹp hay rộng. Hẹp thì giường như chỉ bó khung trong khuôn khổ những gì chỉ liên quan tới đời sống chính trị, đời sống cách mạng. Còn rộng thì liên quan đến, có thể nói là toàn bộ sự sống con người, sự sống nhân dân, đất nước theo hướng có ích, và dĩ nhiên trong đó đã có cả nội dung theo nghĩa hẹp. Nhưng ở đây, có một yêu cầu tối đa là phải tạo ra được sự hài hòa giữa hai nội dung rộng hẹp đó. Nhìn lại nội dung tranh luận giữa hai phái Hải Triền và Hoài Thanh, dễ thấy cả hai ít nhiều đều tỏ ra thiếu sự hài hòa này trong nhận thức. Phái Hoài Thanh, như trên đã nói, rõ ràng là không nghĩ, thậm chí có thề nói là không đủ dũng khí để nghĩ đến chuyện hướng thẳng văn chương nghệ thuật vào cuộc đấu tranh cách mạng đương thời, mà chuyên chú, bàn luận về nội dung nhân sinh theo nghĩa rộng. Ngược lại, phái Hải Triều dù có được điều cơ bản là muốn hướng văn chương vào cuộc đấu tranh cách mạng sôi động, gian khổ bấy giờ, nhưng trên phương diện lý thuyết, đã ít nhiều không tránh khỏi tình trạng đơn giản hóa nội hàm khái niệm nhân sinh. Hải Triều cũng như chiến hữu của ông, hôm nay còn sống, chắc sẽ tự thấy mặt hạn chế của mình để tự điều chỉnh, hoàn thiện. Trên lý thuyết, lại còn vấn đề quan niệm, định nghĩa về nghệ thuật, về văn chương là gì? Trong đó, có không biết bao nhiêu câu hỏi mà nhân loại, đặc biệt là các lý luận gia về nghệ thuật về văn chương đã tìm được và đang phải tìm thêm lời giải đáp nguồn gốc văn chương là gì?. Văn chương nghệ thuật là huyền diệu, nhưng huyền diệu là thế nào? Khác sự thần bí như thế nào? Văn chương nghệ thuật có quan hệ mật thiết tới đạo đức, triết học, chính trị đã đành, nhưng trong thực tiễn của các mối quan hệ đó, cái gì đã được, cái gì chưa được? Cái gì tưởng là đựơc mà hóa ra chưa được? Cái được và cái chưa được theo người này người khác, không phải là một. Vậy chọn ai? Văn chương nghệ thuật có tính giai cấp và tính nhân loại nhưng hiểu thế nào cho đúng về tính giai cấp và tính nhân loại trong văn chương, và quan hệ giữa hai tính đó với nhau? Cũng vậy, văn chương có tính thời đại và tính trường tồn, tính nhất thời và tính bền vững, tính biến động và tính bất biến, có nội dung và hình thức … Nhưng hiểu thế nào cho đúng về mối quan hệ giữa các tính tương khắc cũng là tương hợp đó. Biện chứng pháp Mác xít cho phép nhận thức vấn đề tối ưu. Nhưng đó chỉ mới là khả năng. Kết quả đúng sai, còn là người vận dụng phép biện chứng. Nhìn lại thực trạng tranh luận ở cả hai phái, ít nhiều vẫn thấy chưa đạt tới quan niệm biện chứng cần có. Một ví dụ Khi tranh luận về mối quan hệ giữa văn chương với triết học, đạo đức, tôn giáo, Hoài Thanh đã cho rằng với văn chương, các thứ ấy là phụ và ông đã bị Hải Triều phê phán gay gẵt quan niệm cho là “phụ” này. Nhiều người sau này, trong khi đồng tình với Hải Triều cũng đã phê phán Hoài Thanh về chữ “phụ” đó. Chuyện đúng sai tưởng đã rõ như thế. Nhưng thực ra cách hiểu chính phụ như thế là còn quá đơn giản, trong khi phép biện chứng cho phép chúng ta thấy rằng quan hệ chính phụ cụ thể còn lệ thuộc vào bình diện xem xét vấn đề. Ở bình diện này, cái này là cái chính, cái kia là cái phụ. Ở bình diện kia là ngược lại. Hoài Thanh khi đưa ra quan niệm chính phụ trong mối quan hệ giữa văn chương với triết học, đạo đức, tôn giáo không biết đã tự giác được điều vừa nói đó chưa?. Còn Hải Triều, nếu ý thức được đầy đủ phép biện chứng trong tư duy, hẳn cũng sẽ không cần phải bỏ nhiều công sức cho sự phê phán. 3. Để có một sự nhận xét thỏa đáng thực trạng của cuộc tranh luận, bút chiến về quan điểm nghệ thuật thời kỳ 1935 – 1939, ngoài những điều đã được trình bày trên đây, còn phải đặt cuộc tranh luận, bút chiến này vào tiến trình vận động, phát triển quan điểm nghệ thuật đã từng diễn ra trong lịch sử văn học dân tộc, trong đó có việc xử lý về mối quan hệ giữa văn chương và đạo lý, có tình trạng nhận thức về chức năng của văn chương. Có thể nói gọn như sau Ở thời trung đại, với đặc trưng mang tính chất nguyên hợp, tổng hợp của văn hóa trung đại, quy luật văn sử bất phân, văn triết bất phân đã là một quy luật đặc thù của văn học trung đại. Kèm theo hiện tượng văn sử triết bất phân đó là hiện tượng coi trọng chức năng giáo huấn của văn chương tới mức ít nhiều xem nhẹ chức năng thẩm mỹ của nó. Quan niệm “văn dĩ tải đạo” “thi ngôn chí” đã từng ngự trị trong nền văn chương trung đại. Với những quan niệm văn chương như thế, văn gần như chỉ còn là phương tiện để chở đạo mà thôi. Nhưng rồi trên đà phát triển của văn chương, cùng với quy luật văn sử triết bất phân, cũng đã từng bước xuất hiện sự phân tách văn khỏi sử, khỏi triết. Cũng như trên phương diện quan niệm, bên cạnh khuynh hướng coi văn chương chỉ là phương tiện chở đạo đã từng bước chớm lên ý thức tôn trọng tính độc lập tương đối của văn chương. Nói một cách khác là chức năng thẩm mỹ của văn chương dần dần đựơc nhận thức rõ nét hơn. Ở Trung hoa và ở Việt nam thời trung đại, đều có tình trạng đó. Ở Trung Hoa, cùng với quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ quán đạo”, “văn dĩ minh đạo”, dần dần cũng hình thành quan niệm “đạo thị đạo, văn thị văn” đạo là đạo văn là văn. Ở Việt Nam, trong quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu “Văn chương ai chẳng muốn nghe. Phun châu nhả ngọc báu khoe tinh thần” đã được sóng đối với lý tưởng nghệ thuật “chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Nguyễn Đình Chiểu nói “phun châu nhả ngọc” là nói tới vẻ đẹp của văn chương. Nói tới “báu khoe tinh thần” là nói tới giá trị nội dung của nó. Một quan niệm như thế là một bứơc tiến mới trong quan niệm về nghệ thuật, về văn chương. Nhưng không phải ai cũng nhận thức đựơc như Đồ Chiểu. Các nhà văn chí sĩ đầu thế kỷ XX này, đã có được quan niệm về nghệ thuật rất tích cực đối với văn chương một khi họ coi văn chương là một thứ vũ khí đấu tranh cách mạng bên cạnh nhiều thứ vũ khí khác. Bút chiến chiến đấu bằng ngòi bút bên cạnh thiết chiến chiến đấu bằng sắt thép tức vũ khí gươm đao huyết chiến chiến đấu bằng nhiệt huyết, tấm lòng cứu nước, thiệt chiến chiến đấu bằng cái lưỡi tức là diễn thuyết, tuyên truyền cách mạng … Nhưng với các nhà chí sĩ này, trong quan niệm văn chương vẫn chưa thấy có ý thức về tính độc lập tương đối của văn chương, điều mà Đồ Chiểu trước đó đã có được. Có thể cắt nghĩa hiện tượng này bằng cách nghĩ rằng các nhà chí sĩ không chú tâm bàn chuyện văn chương. Họ chỉ chú ý tới một phương diện là sự cần thiết của văn chương đối với cuộc chiến đấu cứu nước mà nói đầu Đường kách mạng của Nguyễn Ái Quốc, bài thơ “Là thi sĩ” của Sóng Hồng về cơ bản cũng là thuộc khuynh hướng này .Riêng với thế hệ nhà văn trực tiếp tham gia vào công cuộc hiện đại hóa văn học trong nửa đầu thế kỷ này, rõ ràng là có khuynh hướng coi trọng chức năng thẩm mỹ hơn, chú trọng đến tính riêng, tính đặc thù của văn chương hơn so với thế hệ nhà văn – nho gia thời trước một khi đã đặt chức năng giáo huấn lên hàng đầu của việc sáng tạo văn chương. Kể cả với các văn sĩ cách mạng đương thời, một khi chưa lấy văn chương làm lẽ sống. Những lời tuyên ngôn nghệ thuật được viết dưới hình thức thơ như Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, Cảm xúc của Xuân Diệu thể hiện sự chuyển biến quan điểm nghệ thuật đáng được coi là một dấu hiệu tiến bộ trong tư duy, nghệ thuật, quan điểm nghệ thuật. mặc dù không tránh khỏi tính phiến tiễn sáng tác của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại hóa thuận theo quy luật phát triển văn học hiện đại của thế giới một phần là nhờ có bứơc tiến này trong quan niệm văn chương. Tuy nhiên,ở đây vẫn có vấn đề là làm sao có được sự hài hòa giữa các chức năng giáo huấn, chức năng phản ánh và chức năng thẩm mỹ trong văn chương. Trong thực tiễn đời sống văn học, cả trên hai phương diện lý thuyết và sáng tác, đã không dễ gì có một sự hài lòng lý tưởng. Phái Hoài Thanh cũng như phái Hải Triều, qua tranh luận bút chiến, cũng đã nằm trong tình hình chung đó của thời đại, xét ở phương diện đựơc và chưa được. Ở phái Hải Triều, ưu điểm nổi bật là coi trọng chức năng xã hội của văn chương. Nhưng cũng để lộ tình trạng hiểu văn chương ít nhiều còn đơn giản. Ngựơc lại phái Hoài Thanh, xem ra có sự coi trọng văn chương hơn,nhưng trong chừng mực nào đó, cũng lại chưa nhận thức thực sự hòan chỉnh về mối quan hệ xã hội với văn chương. Mong ước của người quan tâm tới văn chương hôm nay vẫn là một sự hài hòa cao độ trong sáng tác cũng như trong lý thuyết văn chương về mối quan hệ đó. Điều đó quả không dễ. Điều đó cũng chỉ có thể có trên quá trình tiếp cận chân lý ——————————————————– Chú thích Hiện có hai cách tính thời gian 1935-1936, 1935-1939 do quan niệm hẹp rộng qui định. Xem Hoài Thanh sau 1945 vui buồn nghề nghiệp, Tạp chí Văn học số 7-1999. Xem Khát vọng thành thật, Tạp chí Văn học số 7-1999. Xem thêm Bài Sự tiến hoá của văn học và sự tiến hóa của nhân sinh Báo Đông phương, Báo Đời mới Trong văn bản Hải Triều có ghi lời tiếng Pháp Xem Văn chương và hành động cùng nhiều bài viết khác của Hoài Thanh ngay trong thời kỳ đang tranh luận. Post navigation
Chủ đề văn học vị nhân sinh là gì Văn học vị nhân sinh là sự kết hợp giữa nghệ thuật và triết học, nhằm nói lên giá trị nhân văn và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm văn học vị nhân sinh giúp người đọc hiểu rõ hơn về bản chất con người và cách tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của văn học vị nhân sinh, xu hướng ẩm thực và du lịch cũng đang được khai thác để tăng cường trải nghiệm văn hóa cho người lụcVăn học vị nhân sinh là khái niệm gì? Tác phẩm văn học nào nổi tiếng được coi là tư tưởng về văn học vị nhân sinh? Tác giả nào đã đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh? Văn học vị nhân sinh ảnh hưởng đến văn học hiện đại như thế nào? Nêu ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh?YOUTUBE Học Văn Vị Nghệ Thuật Hay Vị Nhân Sinh? 2023Văn học vị nhân sinh là khái niệm gì? Văn học vị nhân sinh là một khái niệm trong triết học văn học, bao gồm ý tưởng rằng nghệ thuật, đặc biệt là văn học, có thể và nên được sử dụng để nâng cao đời sống xã hội và con người, thậm chí đưa ra giải pháp cho các vấn đề xã hội. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, ta cần nghiên cứu và phân tích các tác phẩm văn học có chủ đề liên quan đến vị nhân sinh, như tiểu thuyết \"Truyện Kiều\" của Nguyễn Du hay truyện \"Chí Phèo\" của Nam Cao. Những tác phẩm này tập trung vào việc sử dụng tâm trí và tình cảm để chứng minh mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống con người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo ba nghĩa rộng, bao gồm cả nghệ thuật, khoa học, công nghệ, văn hóa vật thể; nghĩa hẹp chỉ đề cập đến trình độ học vấn và văn hóa phẩm cá nhân; cũng như nghĩa chung chỉ về toàn bộ văn hóa một dân tộc. Tóm lại, văn học vị nhân sinh đánh dấu sự phát triển và tăng cường sự hiểu biết về nghệ thuật và văn hóa trong đời sống con người, giúp cho mỗi cá nhân hoàn thiện hơn và đóng góp tích cực hơn vào xã phẩm văn học nào nổi tiếng được coi là tư tưởng về văn học vị nhân sinh? Trong văn học Việt Nam, có một tác phẩm nổi tiếng được xem như tư tưởng về văn học vị nhân sinh đó là \"Tắt đèn\" của nhà văn Ngô Tất Tố. Tác phẩm này được viết vào năm 1946, kể về cuộc đời của một người nghèo khổ, luôn phải đấu tranh để sống sót và giành được chút hạnh phúc trong cuộc đời. Bằng cách miêu tả hành trình tim đường sống của nhân vật chính, tác giả Ngô Tất Tố đã khắc họa được những góc khuất trong xã hội như sự bất công, mất cân bằng trong phân phối tài nguyên, cũng như những đau thương của những người lụy tình, lụy danh, lụy tiền. Tác phẩm \"Tắt đèn\" đã góp phần xây dựng lên văn học Việt Nam, đồng thời mang lại sự tiếng tăm cho nhà văn Ngô Tất giả nào đã đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh? Tác giả đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh là người Pháp Auguste Comte 1798-1857. Ông là một nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, nhà lý thuyết xã hội và triết học thực chứng. Ông khẳng định rằng văn học không chỉ là việc sáng tạo nghệ thuật mà còn là cách để hiểu thế giới xung quanh chúng ta, tác động đến tư duy và hành động của con người. Văn học vị nhân sinh được coi là lý thuyết tổng thể với mục đích nhằm đưa ra những giải pháp cho các vấn đề xã hội và định hướng cho sự tiến bộ của loài người. Tuy nhiên, lý thuyết này hiện tại không còn được sử dụng nhiều trong giới triết học và văn học hiện học vị nhân sinh ảnh hưởng đến văn học hiện đại như thế nào? Văn học vị nhân sinh là một khái niệm được đặt ra bởi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, để chỉ tầm quan trọng của việc viết văn học đối với cuộc sống và nhân sinh của con người. Văn học vị nhân sinh là sự kết hợp giữa những yếu tố văn học và những giá trị và ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống. Văn học hiện đại Việt Nam đã được ảnh hưởng rất nhiều bởi thế hệ các nhà văn đã bước đầu khám phá và phát triển khái niệm văn học vị nhân sinh. Các tác phẩm văn học hiện đại như \"Dế Mèn Phiêu Lưu Ký\" của Tô Hoài, \"Số Đỏ\" của Vũ Trọng Phụng hay \"Nỗi Buồn Chiến Tranh\" của Bảo Ninh đều có sự hiện diện rõ ràng của tư tưởng văn học vị nhân sinh. Những tác phẩm này là những tác phẩm không chỉ thể hiện một phần cuộc đời và tâm hồn của tác giả mà còn giúp ta hiểu rõ hơn về tác động của xã hội, của cuộc sống đến con người. Văn học vị nhân sinh là một trong những yếu tố đã giúp cho văn học hiện đại Việt Nam đạt được một vị trí đặc biệt trong cộng đồng văn học quốc tế. Những tác phẩm này đã giúp cho văn học hiện đại Việt Nam được đánh giá là có tính chất sâu sắc và thể hiện được những giá trị đặc trưng của dân tộc Việt ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh?Một ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh là tiểu thuyết \"Cho tôi xin một vé về tuổi thơ\" của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm này được xem là một trong những tác phẩm nổi tiếng và gây tiếng vang lớn trong giới văn học Việt Nam. Trong tiểu thuyết, tác giả đã miêu tả cuộc sống và cuộc phiêu lưu của nhân vật chính - một cậu bé trên con đường tuổi thơ, thông qua đó tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ tuổi thơ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời thể hiện tư tưởng về sự trưởng thành và khát khao tìm kiếm về bản Văn Vị Nghệ Thuật Hay Vị Nhân Sinh? 2023Văn học vị nhân sinh luôn là niềm tự hào của văn học Việt Nam. Năm 2023, với sự bùng nổ của văn học trẻ, chúng ta đã có thêm nhiều tác phẩm xuất sắc, lấy cảm hứng từ cuộc sống và mang đến những giá trị nhân văn sâu sắc. Điều đó giúp khán giả hiểu hơn về tình cảm, nhân sinh và trân trọng thêm tình yêu đất nước. Chủ Nghĩa Vị Nhân Sinh 2023Chủ nghĩa vị nhân sinh đang được nhiều người quan tâm và ứng dụng trong đời sống. Đó là cách sống đạo đức, giá trị tình thương và quan hệ tình cảm giữa con người với nhau và với thiên nhiên. Những tác phẩm mang thông điệp này truyền cảm hứng, động viên và thêm hiểu biết về tầm quan trọng của các giá trị nhân sinh trong cuộc sống. Vũ Trụ Văn Học Môn Văn và Tầm Quan Trọng Với Cuộc Đời 2023Vũ trụ văn học luôn là chủ đề hấp dẫn đối với người yêu văn học và khoa học. Vào năm 2023, một loạt các tác phẩm đa dạng về vũ trụ đã xuất hiện, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vũ trụ và vẻ đẹp của nó. Chúng mang đến những giá trị đáng kinh ngạc, khai sáng và giúp ta cảm nhận được rất nhiều kỳ quan của vũ trụ.
Nghệ thuật không chỉ mang những giá trị về cái đẹp mà còn có nhiều tầng lớp ý nghĩa, nội dung mà người nghệ sĩ muốn truyền tải. Tùy vào mục đích, cách truyền tải thông điệp và giá trị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh sẽ có những khái niệm và góc nhìn khác nhau. 1. Nghệ thuật là gì? Là những hoạt động sáng tạo khác nhau tạo nên những sản phẩm mang nhiều giá trị. Như giá trị văn hóa, thẩm mỹ, tinh thần, tư tưởng. Thông quan hoạt động nghệ thuật, nghệ thuật mang đến cái đẹp cho cuộc sống. Đồng thời người làm nghệ thuật cũng gửi tâm sự, suy nghĩ, ước vọng, cảm xúc của mình đến với người thưởng thức. Nghệ thuật chứa đựng rất nhiều giá trị và phong phú về các lĩnh vực để thể hiện. Do đó, hiện nay nghệ thuật có thể mang nhiều thông điệp về Giáo dục, nhận thức. Truyền thông, giao tiếp. Giải trí. Thẩm mỹ. Có thể bằng cách này hay cách khác, bằng loại hình này hay loại hình khác. Nhưng cái đẹp, tính thẩm mỹ luôn là người bạn song hành cùng nghệ thuật. 2. Các loại hình nghệ thuật. Các loại hình thuộc nghệ thuật thị giác. Là các loại hình nghệ thuật được tiếp cận thông qua kênh thị giác. Những sản phẩm thuộc loại hình nghệ thuật này được sáng tạo, thiết kế dựa trên những nguyên lý thị giác. Nhằm hướng những chuẩn mực giá trị về mặt thẩm mỹ. Bao gồm các loại hình tiêu biểu Kiến trúc Điêu khắc Hội họa Các loại hình nghệ thuật trình diễn. Phương tiện của nghệ thuật thị giác là màu sơn, đất sét, kim loại…Còn đối với nghệ thuật trình diễn thì phương tiện là âm thanh, nhạc cụ, diễn xuất….Người nghệ sĩ sẽ biểu diễn, truyền đạt nội dung, giá trị nghệ thuật trước công chúng. Tiêu biểu Âm nhạc. Sân khấu. Điện ảnh. Múa, nhảy. 3. Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật vị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nghệ thuật hướng đến thuộc tính và giá trị nội tại của nghệ thuật. Giá trị nội tại này là giá trị về một nghệ thuật chân chính, đích thực. Theo định hướng đó, nghệ thuật chỉ nên hướng về chính bản thân nó. Ví dụ như họa sĩ vẽ tranh phong cảnh thì họ chỉ quan tâm đến nét đẹp phong cảnh đó. Và thể hiện nét đẹp đó trong tác phẩm của mình sao cho hoàn hảo nhất đã là đạt yêu cầu. Khi hướng đến giá trị thẩm mĩ của nghệ thuật, có thể nói đó là ý nghĩa của nghệ thuật vị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật vị nhân sinh thì hướng đến mục đích làm nghệ thuật và chức năng của nghệ thuật. Mà cụ thể là hướng về con người, đời sống, xã hội. Vì vậy nghệ thuật vị nhân sinh sẽ mang nhiều nhiệm vụ hơn, truyền tải nhiều thông điệp hơn. Như trong một số những giai đoạn lịch sử, nghệ thuật như tấm gương phản chiếu đời sống hiện thực của xã hội. Như tác phẩm nổi tiếng “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Người nghệ sĩ đã thông qua hoạt động nghệ thuật để phản ánh nỗi khổ đau của tầng lớp người dân trong bối cảnh thời đó. Nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh là góc nhìn của mỗi người. Trong lịch sử từng có nhiều sự tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh. Cái nào sẽ đúng và phù hợp hơn? Cái nào mới là nghệ thuật thật sự? Nghệ thuật thật sự thì nên hướng về bản thân nó hay hướng về con người, xã hội? Có lẽ những câu hỏi này đến nay vẫn sẽ là đề tài tranh luận. Nhưng trong bài viết chia sẻ này, ta không bàn luận về điều này. Vì nghệ thuật có tiếng nói riêng. Một tiếng nói không chỉ nghe bằng tay, hay có thể nói bằng lời. Một ngôn ngữ mà người học lưu loát chưa chắc đã có thể hiểu. Và người chưa từng học qua chưa chắc đã không biết gì. Chính vì sự vô cùng đặc biệt này mà nghệ thuật vẫn cuốn hút, vẫn say mê. Dù bạn là người hoạt động nghệ thuật hay người cảm hưởng nghệ thuật. Đôi khi một bức tranh đẹp chỉ vì nó đẹp. Hay một bài hát hay vì giai điệu thú vị và ca từ độc đáo. Nếu chỉ vì chúng không chứa một thông điệp truyền tải nào. Mà chúng ta không công nhận là tác phẩm nghệ thuật thì thật sự đáng tiếc, đúng không? Trường hợp khác, với những tác phẩm hội họa mang nội dung phản ánh hiện thực. Chúng ta phân tích về mặt nội dung thôi. Bỏ quên đi những phương thức biểu hiện như đường nét, phối màu, bố cục… Thì phải chăng chúng ta cũng đã bỏ sót giá trị thẩm mỹ hay kiến thức hội họa mà chúng mang lại? Tạm kết Vị nghệ thuật, hay vị nhân sinh là việc lựa chọn góc nhìn. Như trong hội họa, tùy vào phong cách, mục tiêu mà họa sĩ sẽ chọn cho mình kiến thức phù hợp. Các khóa học vẽ cũng từ những nhu cầu, mục đích học mà nội dung ngày càng phong phú, đa dạng. Phục vụ không riêng biệt một đối tượng nào. Với nghệ thuật nên là góc nhìn tổng thể và rộng mở. Digiart Academy - Cảm thụ nghệ thuật thông qua kỹ năng vẽ đồ họa THAM GIA HỌC TẠI ĐÂY!
văn học vị nhân sinh